Định vị các vấn đề căn bản của giáo dục phổ thông
(Chinhphu.vn) - Báo cáo phân tích ngành giáo dục giai đoạn 2011-2015 do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam công bố góp phần định vị các vấn đề căn bản của giáo dục phổ thông.
Ảnh minh họa
Báo cáo do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tiến hành nghiên cứu, xây dựng dưới sự hỗ trợ của Tổ chức Giáo dục toàn cầu (GPE) và UNESCO, tập trung vào giáo dục phổ thông với 3 nội dung chính là tiếp cận giáo dục, kết quả học tập của học sinh phổ thông và đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 2011-2015.
Báo cáo đã ghi nhận tỉ lệ học sinh nhập học đúng độ tuổi có xu hướng gia tăng ở cả 3 cấp học; tỉ lệ lưu ban và bỏ học có xu hướng giảm ở các cấp học, nhưng có sự khác biệt giữa các vùng miền; vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục đã được quan tâm. Phần lớn trẻ em trong độ tuổi tiểu học đang đi học không có sự chênh lệch về giới….
Cũng theo Báo cáo này, mặc dù Việt Nam đã rất tích cực trong việc ban hành khung pháp lý để tạo điều kiện phát triển và bảo vệ người khuyết tật, nhưng trên thực tế trẻ em khuyết tật vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận giáo dục. Tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi của trẻ em dân tộc thiểu số có sự chênh lệch khá lớn so với của trẻ em dân tộc Kinh ở cấp THCS và THPT.
Báo cáo đã đưa kết quả Việt Nam tham gia chương trình đánh giá PISA năm 2012 (đứng trong số 20 quốc gia có điểm cao nhất) và cho rằng, kết quả này cho thấy phần nào chất lượng và hiệu quả hoạt động dạy học ở giáo dục phổ thông của Việt Nam trong việc tạo nền tảng về kiến thức và năng lực cho học sinh.
Ngoại ngữ vẫn là điểm yếu
Theo Báo cáo, kết quả đánh giá định kỳ cấp quốc gia đối với một số lớp đầu cấp và cuối cấp học như lớp 5, 6, 9, 11 nhằm theo dõi sự thay đổi về kết quả học tập của học sinh cho thấy, về tổng thể, tính trung bình, học sinh đều đạt được các chuẩn kiến thức - kĩ năng ở mức trên 50% ở các môn học.
Tuy nhiên, có sự khác biệt khá lớn giữa các vùng miền trong cả nước. Khu vực miền núi có tỉ lệ học sinh đạt chuẩn thấp hơn so với khu vực nông thôn và thành thị. Tỉ lệ học sinh dân tộc thường đạt chuẩn ở các môn học thấp hơn học sinh dân tộc Kinh.
Ngoài ra, kết quả học tập của học sinh chưa đồng đều giữa các môn học. So sánh kết quả giữa các môn học thì Ngoại ngữ vẫn là điểm yếu đối với học sinh Việt Nam. Đây chính là rào cản đối với học sinh Việt Nam khi tiếp tục học lên hoặc tham gia thị trường lao động trong bối cảnh Việt Nam hội nhập mạnh mẽ về mặt kinh tế và thương mại.
Từ kết quả nghiên cứu tại 3 tỉnh, thành phố tham gia khảo sát về việc triển khai hoạt động dạy học và phát triển năng lực ở một số lĩnh vực như năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực hợp tác cho thấy, công tác chỉ đạo dạy học phát triển năng lực học sinh đã và đang được triển khai khá mạnh mẽ dưới nhiều hình thức đa dạng. Tuy nhiên, công tác chuẩn bị các điều kiện cho dạy và học phát triển năng lực cần được quan tâm hơn nữa để bảo đảm tính hiệu quả và xuyên suốt.
3 khuyến nghị với giáo dục phổ thông
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa cho rằng, Báo cáo phân tích ngành giáo dục giai đoạn 2011-2015 có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh toàn ngành giáo dục đang triển khai đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Trong đó, Báo cáo đã đưa ra được 3 khuyến nghị quan trọng.
Thứ nhất, tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục, đặc biệt là cho các đối tượng thiệt thòi, trẻ em khuyết tật, trẻ em nghèo.
Thứ 2, đổi mới giáo dục phổ thông, trong đó đặc biệt chú trọng tới đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học; đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, phân luồng sau trung học; đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy và học.
Thứ 3, đổi mới quản lý giáo dục, đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, tăng cường hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo nhằm huy động nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trong phát triển giáo dục.
Theo Hoàng Lâm